Lịch sử phát triển Framework
Framework có tên đầy đủ là .NET Framework, do hãng Microsoft tạo ra để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển các ứng dụng. Vì vậy, nó được xem như là một thư viện chứa nhiều công nghệ của nhiều lĩnh vực hay là bộ khung, sườn để phát triển các phần mềm ứng dụng. Tức là nó tạo ra các “vật liệu” ở từng lĩnh vực cho người lập trình viên, thay vì họ phải mất nhiều thời gian để tự thiết kế trước khi dùng.
Do vậy, người lập trình viên chỉ cần tìm hiểu và khai thác các vật liệu này rồi thực hiện (tức là lập trình) để gắn kết chúng lại với nhau, tạo ra sản phẩm. Chính vì vậy, tùy vào cách sáng tạo của người lập trình viên mà sản phẩm tạo ra thể hiện những tính năng khác nhau nhưng vẫn nhất quán trong cách xây dựng, điều này sẽ tránh được những xung đột về phần mềm khi chúng cùng hoạt động.
Framework có 2 thành phần chính là Common Language Runtime (CLR) và NET Framework class library. CLR là một chương trình viết bằng .NET, không được biên dịch ra mã máy mà nó được dịch ra một ngôn ngữ trung gian Microsoft Intermediate Language (MSIL). Khi chạy chương trình, CLR sẽ dịch MSIL ra mã máy để thực thi các tính năng. Còn NET Framework class library cung cấp thư viện lập trình như cho ứng dụng, cơ sở dữ liệu, dịch vụ web...
Chẳng hạn, để thiết kế một trò chơi đua xe, nếu không có bộ Framework chuyên dụng cho game, người lập trình game phải tự tạo ra: khung xe, bánh xe, người, đường đi, cây, biển báo... rồi mới tính đến chuyện “lắp ghép” chúng lại với nhau để tạo ra không gian cho game; trong khi cũng với dạng trò chơi này, nhưng nếu dùng bộ Framework có sẵn đã được phát triển thì người lập trình viên chỉ cần viết các lệnh để lấy chúng ra từ Framework và ghép chúng lại.
Để dễ hiểu, chúng ta có thể hình dung, Framework bao gồm các nguyên vật liệu như gạch, cát, xi măng, sắt... nhưng tùy theo cách thiết kế của người kiến trúc sư mà tạo ra những căn nhà với hình dạng khác nhau.
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét